Thứ Tư, 27 tháng 5, 2015 0 nhận xét

BỆNH VIÊM CẦU THẬN CẤP - NGUY HIỂM TIỀM ẨN

Viêm cầu cật cấp có can hệ khắn khít với một số vi sinh vật gây bệnh, điển hình là vi khuẩn liên cầu nhóm A (S. pyogenes). Ngoài ra, có thể do tụ cầu (Staphylococcus) hoặc phế cầu (S. pneumoniae) hoặc một số virút như: viêm gan B, quai bị, sởi, thủy đậu hoặc do ký sinh trùng (một số nấm gây bệnh, ký sinh trùng sốt rét) nhưng tỉ lệ thấp. Viêm cầu cật cấp cũng có thể do một số bệnh về cấu tạo keo như: luput hệ thống, viêm quanh các vi mao mạch hoặc có thể viêm cầu thận cấp do ngộ độc muối kim khí nặng hoặc quá nhạy cảm với một số thuốc như: Penicilline, Sulfamides.

Triệu chứng

Trẻ em mắc viêm cầu cật cấp nhiều hơn người lớn. Bệnh xuất hiện đột ngột, nhất là vào những tháng nắng nóng thì trẻ dễ bị nhiễm trùng da gây mụn mủ, chốc đầu. Vào mùa lạnh, đổi thay thời tiết rất dễ bị viêm họng bởi các vi sinh vật. bộc lộ mỏi mệt, sốt 38 - 390C hoặc thỉnh thoảng sốt nhẹ hơn.<!--more-->

tuổi đầu của viêm cầu thận cấp thì có thể đau vùng dây lưng hai bên, rối loạn tiêu hóa, chán ăn, đau bụng, buồn nôn. Khi bệnh bước sang giai đoạn toàn phát thì xuất hiện phù, lúc đầu phù nhẹ ở mặt (thấy nặng mặt, mi mắt phù), sau đó phù dưới da xuất hiện ở vùng mắt cá chân. Phù trắng, ấn lõm (phù quanh mắt cá, mặt trước xương chày, mu bàn chân) và có đặc điểm là không gây đau. Một số trường hợp nặng có thể xuất hiện phù toàn thân gây tràn dịch màng phổi, màng bụng, phù phổi cấp, phù não. Cần lưu ý là phù trong viêm cầu thận cấp phụ thuộc vào chế độ ăn uống (ăn mặn thì phù tăng lên, ăn nhạt thì phù giảm). đồng thời với phù là đái ít cả về số lần đi tiểu, cả về số lượng nước tiểu và xuất hiện sớm (nước giải chỉ đạt được 500 - 600ml/24giờ). Có thể gây nên thiểu niệu (nước tiểu dưới 500ml/24giờ) hoặc vô niệu (nước giải dưới 100ml/24giờ). nước giải có màu sẫm, nếu nặng thì có màu đỏ nhạt như nước rửa thịt do nước tiểu có hồng huyết cầu được gọi là đái máu. Đái máu xảy ra trong vài tuần đầu của bệnh. Khi nhìn thấy nước đái màu đó thì được gọi là đái máu đại thể (mắt thường nhìn thấy nước giải màu đỏ), sau đó chỉ đái máu vi thể (chỉ xác định được bằng kỹ thuật soi cặn nước đái bằng kính hiển vi quang học). Đái máu vi thể có thể diễn ra trong một thời gian dài (khoảng từ 3 - 6 tháng).

Phù là dấu hiệu lâm sàng đầu tiên mà người bệnh cảm nhận được
Phù là dấu hiệu lâm sàng đầu tiên mà người bệnh cảm nhận được

Khi nghi viêm cầu thận cấp ngoài các triệu chứng lâm sàng thì không thể không xét nghiệm nước giải để đánh giá về sự có mặt của hồng huyết cầu, protein, trụ niệu (chuyển hóa protein dở dang), trụ hạt (do tế bào viêm từ cầu thận bị bong ra và đi qua ống cật). Xét nghiệm công thức máu có thể thấy giảm số lượng hồng huyết cầu do đái máu, thấy bạch huyết cầu tăng, nhất là bạch cầu đa nhân trung tính, tốc độ lắng máu tăng và phản ứng protein C (CRP) dương tính. Xét nghiệm sinh hóa máu thấy urê, creatinin tăng, trong khi đó protid máu giảm. Nếu viêm cầu cật cấp do vi khuẩn liên cầu nhóm A thì hàm lượng kháng thể kháng streptolysin O tăng (ASLO). Trong trường hợp thật cần thiết thì có thể sinh thiết cật.

Biến chứng

Viêm cầu thận cấp có thể khỏi hoàn toàn từ 90 - 95%, nếu phát hiện và điều trị sớm, tuy nhiên, nếu không phát hiện và điều trị kịp thời có thể gây ra biến chứng. Sau một thời gian, có thể xuất hiện tăng huyết áp, hiểm nguy nhất là tăng huyết áp một cách đột ngột có thể gây biến chứng đột quỵ. Biến chứng hiểm nhất trong giai đoạn viêm cầu cật cấp là suy cật cấp, suy tim cấp hoặc suy tim gây phù phổi cấp.

Viêm cầu thận cấp cũng có thể gây phù não cấp hay bệnh não áp huyết cao, bộc lộ nhức đầu, buồn nôn, nôn, chóng mặt, mờ mắt và có thể co giật toàn thân, hôn mê.

Không xem thường bệnh viêm cầu thận cấp
S. pyogenes

Nguyên tắc phòng và điều trị

Đó là vừa điều trị nguyên do nhiễm khuẩn bằng kháng sinh vừa điều trị triệu chứng (sốt, phù, tăng áp huyết…).

Để phòng bệnh, cần phát hiện sớm và điều trị triệt để các bệnh nhiễm trùng ở mũi, họng và các bệnh mụn nhọt, chốc đầu, đặc biệt là do vi khuẩn liên cầu nhóm A (S. pyogenes) gây ra. Cần vệ sinh hàng ngày họng miệng bằng cách súc họng sau khi ăn, trước khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy. Vệ sinh thân thể bằng hình thức tắm rửa sạch sẽ hàng ngày tránh để xảy ra mắc bệnh mụn, nhọt, chốc đầu. Mùa lạnh cần giữ ấm cổ, không uống nước lạnh quá.

Trẻ em khi bị viêm họng mà nghi ngờ do liên cầu nhóm A cần được điều trị hăng hái, triệt để. Đặc biệt, khi phản ứng ASLO định lượng dương tính, cần được tham mưu của thầy thuốc để được tiêm phòng kháng sinh penicillin chậm theo quy định (liều lượng bao lăm và trong thời gian bao lâu). Đối với các trường hợp sau khi đã được điều trị khỏi bệnh viêm cầu thận cấp thì theo định kỳ nên được khám bệnh để thẩm tra các chức năng của cật.

 
;